3. So sánh nền văn minh phương đông cổ đại và phương tây cổ đại về chính trị - xã hội Cũng giống như về kinh tế, về chính trị - xã hội cổ đại phương đông và xã hội cổ đại phương tây có những nét giống và khác nhau nhất định. 3.1.
Văn minh phương Đông và phương Tây. Phương Tây luôn được nhắc đến là một trong những cái nôi văn hóa lớn nhất của nhân loại với nền văn minh La Mã - Hy Lạp cổ đại. Người phương Tây thường sống thiên về lí trí, đề cao năng lực phân tích và tính cá nhân.
[justify]Hình minh họa cụ thể hóa được phương thức làm việc của 2 nền văn hóa: Trong khi người phương tây làm việc với sự liên kết một cách mạch lạc và có hệ thống, người phương Đông lại có cách tổ chức khá rối rắm và nhằng nhịt.[/justify] [justify]5.
Lối sống:: Người phương Tây đề cao lối sống cá nhân, năng lực bản thân trong khi người phương Đông ca ngợi sự hòa đồng, tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. Sếp: Ở phương Tây, sếp có vai trò nhỉnh hơn nhân viên nhưng không áp đặt uy quyền đáng kể. Còn ở phương Đông
So sánh văn hóa cổ đại phương Đông và phương Tây. Dưới đây là bảng so sánh văn hóa cổ đại phương Đông và phương Tây để giúp các bạn hiểu rõ hơn về nền văn hóa của các nước phương Đông cũng như phương tây thời cổ đại. So sánh các quốc gia cổ đại phương Đông và Phương Tây về văn hóa. Tiêu chí.
. Art CafeDu lịchVietnamKhông gian đẹpPhong thủyPhotoshopPR – Marketting – Event-AdThời trangBộ sưu tậpThư viện-Tổng hợpVăn minhVăn minh PhươngĐôngÝ tưởng sángtạoVideoVietnam’s Next TopModelVăn minhLoài người ra đời cách đây hàng triệu năm, và từ đó loài người đã sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh mãi đến cuối thế kỷ IV TCN, xã hội nguyên thuỷ bắt đầu tan rã ở Ai Cập, nhà nước bắt đầu ra đời,từ đó loài người mới bắt đầu bước vào thời kỳ văn đang xem Văn minh phương tây cổ đạiTrong thời cổ đại cuối thiên niên kỷ IV, đầu thiên kiên kỷ III TCN,đến những thế kỷ SCN, ở phương Đông châu Á và Đông Bắc châu Phi, có bốn trung tâm văn minh lớn Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc. Có một tình hình chung nổi bật là cả bốn trung tâm văn minh này đều nằm trên những vùng chảy qua của những con sông lớn. Muộn hơn một tí, ở phương Tây đã xuất hiện nền văn minh Hy Lạp cổ văn minh Hy Lạp có cơ sở đầu tiên từ thiên niên kỷ III TCN,nhưng tiêu biểu cho nền văn minh Hy Lạp là những thành tựu từ khoảng thế kỷ VII TCN trở về sau. Đến thế kỷ VI TCN, nhà nước La Mã bắt đầu thành lập, trở thành trung tâm văn minh thứ hai ở phương minh La Mã vốn chịu ảnh hưởng của văn minh Hy Lạp, vốn có cùng một phong cách, giờ đây lại hoà làm một, nên hai nền văn minh này được gọi chung là văn minh vậy, trên thế giới có hai khu vực văn minh lớn phương Đông và phương Tây. Thời cổ đại, phương Đông có bốn trung tâm văn minh là Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ và Trung Quốc. Thời trung đại, cả Tây Á và Ai Cập đều nằm trong bản đồ đế quốc Ả Rập nên phương Đông chỉ còn lại ba trung tâm văn mình Ả Rập, Ấn Độ và Trung Quốc. Trong các nền văn minh ấy, văn minh Ấn Độ và Trung Quốc được phát triển liên tục trong tiến trình lịch thêm Phim Chiếu Rạp Tháng 7 2018 Hot Nhất, Lịch Phim Tháng 07/2018Ở phương Tây, thời cổ đại chỉ có nền văn minh Hy-La, đến thời trung đại cũng chỉ có một trung tâm văn minh mà chủ yếu là ở Tây Âu. Ngoài những nền văn minh ở lục địa Á, Âu, Phi, ở châu Mỹ trước khi bị người da trắng chinh phục, tại Mexico và Peru đã từng tồn tại nền văn minh của người Maya, Azteque và thời cận đại, do sự phát triển nhanh chóng về khoa học kỹ thuật, nhiều nước phương Tây đã trở thành những quốc gia phát triển về mặt kinh tế và hùng mạnh về quân sự. Cùng với việc biến hầu hết các nước ở Á, Phi, Mỹ La Tinh thành thuộc địa của các cường quốc châu Âu, văn minh phương Tây đã truyền bá khắp thế giới.
Review sách Văn minh Đông Phương và Tây Phương - một cái nhìn sâu sắc về văn hóa Đông Tây Thời kỳ hội nhập mang đến đất nước chúng ta những cơ hội mới, những luồng văn hóa mới nhưng cũng đi kèm cái giá là sự biến chất, mai một của nhiều giá trị văn hóa truyền thống quý báu. Thói sính ngoại đã lan đến cả những vùng thôn quê và có những thay đổi đáng kể lên tư duy người Việt, lên cách chúng ta quan sát, cảm nhận và giữ gìn văn hóa phương Đông. Cùng đọc cuốn Văn minh Đông Phương và Tây Phương của tác giả Nguyễn Duy Cần để có cái nhìn sâu sắc, khúc chiết hơn về sự khác biệt giữa hai nền văn hóa này. Tác giả cuốn Văn minh Đông Phương và Tây PhươngNội dung cuốn Văn minh Đông Phương và Tây PhươngNgười phương Đông Người phương TâyTrích dẫn hay từ cuốn Văn minh Đông Phương và Tây PhươngNhận xét về cuốn Văn minh Đông Phương và Tây PhươngLời kếtCảm Nhận Của Độc Giả Văn minh Đông Phương và Tây Phương là một cuốn sách nổi tiếng khác của học giả Nguyễn Duy Cần. Cụ Nguyễn Duy Cần là một nhà giáo, nhà nghiên cứu, nhà văn lỗi lạc của Việt Nam trong thế kỷ 20. Cụ để lại một khối lượng tác phẩm đồ sộ và có giá trị tham khảo vô cùng lớn. Những cuốn sách của Nguyễn Duy Cần đến nay vẫn được người đọc vô cùng trân trọng bởi những giá trị vượt thời gian. Những cái tên nổi bật phải kể đến như Tôi tự học, Óc sáng suốt, Thuật yêu đương, Cái dũng của thánh nhân, Văn minh Đông Phương và Tây Phương,… Review sách Văn minh Đông Phương và Tây Phương – một cái nhìn sâu sắc về văn hóa Đông Tây Sách hay nên đọc Review sách Tôi tự học – Cách học xứng đáng với cái tầm của từng trang sách Công ty phát hành NXB Trẻ Ngày xuất bản 2017-04-11 000000 Kích thước 13 x 19 cm Số trang 168 Nội dung cuốn Văn minh Đông Phương và Tây Phương Trước tình trạng người Việt chuộng Tây hơn Đông, người phương Đông bị Tây hóa quá nhanh, cuốn sách Văn minh Đông Phương và Tây Phương bàn luận về những cái hay, những giá trị vượt bậc của Đông phương và những cái chưa hay trong nền văn hóa Tây phương. Phân tích, so sánh những cái hay dở trong tinh thần, tư tưởng, đạo lý giữa hai nền văn minh, Văn minh Đông Phương và Tây Phương rút ra những cái chung nhất như sau Người phương Đông Dễ thấy, sách vở kinh điển của Đông phương thường dùng lối hành văn rất vắn tắt, ít lý luận và không đi vào mình chứng dài dòng. Mục đích của lối viết ấy là để người đọc phải dụng công suy nghĩ. Việc của họ là gợi lên trong người đọc manh nha những luồng tư tưởng chứ không truyền bá, gượng ép. Hiểu biết là phải tự mình tìm ra, tự mình chiêm nghiệm chứ không phải được nhồi sọ. Học của người khác không phải để chạy theo họ, mà để làm sâu hơn, làm dày hơn vốn hiểu biết của mình. Theo Văn minh Đông Phương và Tây Phương, người phương Đông thiên về phẩm và coi nhẹ lượng. Họ luôn tự đặt những câu hỏi về bản thân với mục đich cuối cùng là tu tập để giải thoát. Đặt mục đích tối cao là hiểu bản thân, vì hiểu bản thân – cái tiểu vũ trụ trong chính mình, thì mới hiểu được vũ trụ cao rộng ngoài kia. Nhiều nước phương Đông bị tụt hậu so với phương Tây vì họ không trọng vật chất. Đa số các nước này đã trở thành thuộc địa của các nước thống trị. Một số nước lại vươn lên thành cường quốc nhưng sau đó lại chà đạp lên các quốc gia khác. Review sách Văn minh Đông Phương và Tây Phương – một cái nhìn sâu sắc về văn hóa Đông Tây Sách hay nên đọc Review sách Óc sáng suốt – Tư duy là một công trình nghệ thuật Người phương Tây Người phương Tây nhận xét rằng sách vở phương Đông viết tối tăm, mơ màng, không được rõ ràng và minh bạch như Tây phương. Trái lại, nhiều học giả phương Đông lại nhận xét lối văn của phương Tây là nông nổi, gượng ép, vì cố nhồi vào tâm trí người đọc những tư tưởng chủ quan của mình mà không cho họ tự khái quát, tự thấm thía, làm mất tinh thần và bản chất vốn có của người đọc. Theo Văn minh Đông Phương và Tây Phương, người phương Tây theo đuổi tự do vật chất. Nhiều người cho rằng tự do vật chất sẽ cho họ tự do tinh thần. Nhưng chính vì khát khao độc lập vật chất này, họ đã dồn loài người tới những cuộc chiến tranh phi nghĩa, cốt để tranh giành của cải và quyền lực. Gần 200 năm nay, loài người chạy theo chủ nghĩa vật chất, mải mê đánh chiếm mà quên mất việc quan trọng là phát triển tâm thức, nhìn sâu vào những nhu cầu bên trong mình. Trích dẫn hay từ cuốn Văn minh Đông Phương và Tây Phương Cái học của người Đông phương là cái học siêu hình về Bản thể, chứ không phải thuộc cái học về sắc tướng, hướng về sự trở nên như của người Tây phương. Người Đông phương suốt đời chỉ tìm mà thực hiện lại cái Duy nhất ấy, trở về cái nguồn gốc ấy bản thể. Bản thể có sẵn nơi mỗi người. Vì thế, người Đông phương không tìm cách trở nên cái toàn thiện của bên ngoài, nghĩa là không tìm mà mô phỏng theo cái toàn thiện của kẻ chung quanh. Trái lại, họ tìm mà thực hiện cái Bản thể nơi bản thân họ, cho nên cái học của họ là cái học từ giác, tu thân, phản tỉnh. Review sách Văn minh Đông Phương và Tây Phương – một cái nhìn sâu sắc về văn hóa Đông Tây Và cũng nhân đó, quan niệm về sức mạnh của họ không phải đem cái vũ lực để chinh phục thế giới bên ngoài như Tây phương mà là cái sức mạnh tinh thần, lo chinh phục, chiến thắng mình trước hết. “Trước làm sáng cho mình, sau làm sáng cho người” “Tu thần, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” Trái lại, kẻ người Đông phương đã tự mình nhận chân được cái kho tàng bất tận nơi mình rồi, thì người đó ắt không còn khao khát gì về ngoại vật nữa, và cũng nhờ đó mà lòng họ được bình tĩnh, thản nhiên hơn với những biến cố trong đời. Theo người Tây phương, mỗi một cái gì bên ngoài kích thích ám ảnh mình mà mình mong ước và mình tìm được phương thế để thỏa mãn được, nghĩa là mình chinh phục hay thâu trữ được, đó gọi là một tiến bộ, … cho nên thời gian của họ rất eo hẹp. Họ trở nên bồn chồn, vất vả, lo âu, băn khoăn, náo động đến nỗi không kịp ngày giờ để trầm ngâm suy nghĩ. Bởi vậy, tâm họ thiếu kiên nhẫn, ưa vụt chạc, rất nóng nảy. Còn người Đông phương, trái lại hòa hoãn, ung dung, thản nhiên, bình tĩnh và thích trầm ngâm tư tưởng hơn. … Và vì thế, người Tây phương chê người Đông phương là làm biếng. Người Tây phương là người hành động. Họ đánh giá con người theo cái năng lực sản xuất vật chất của người ấy. Con người đắc lực của họ, tựu trung là người thành công về vấn đề tiền bạc, vì tiền bạc là phương tiện để họ sai sử thế giới chung quanh, để nâng cao giá trị bên ngoài, để bù đắp cái nghèo kém tinh thần của họ. Anh Trung Hoa nói “Hễ được phần này thì mất phần kia. Máy bay giúp cho người ta giao dịch mau lẹ, nhưng nó cũng đã giúp cho chiến tranh tàn phá gớm ghê. Cũng không có một tiến bộ gì mà không có một thối bộ khác bù vào.” Bình đẳng của Đông phương căn cứ trên sự bất bình đẳng tự nhiên, cho rằng con người sanh ra không ai bình đẳng cả về phẩm chất. Tuy nhiên, người Đông phương rất quý trọng cá nhân, mỗi cá nhân đều có giá trị tuyệt đối nếu họ biết thực hiện đến mức cùng cực cái thực thể của bản thân họ. Trong một dàn nhạc, cái tận thiện của một nhạc sĩ đờn vĩ cầm không giống cái tận thiện của một nhạc sĩ đờn dương cầm. Trích ” Văn minh Đông Phương và Tây Phương” Nhận xét về cuốn Văn minh Đông Phương và Tây Phương Sách Văn minh Đông Phương và Tây Phương gợi cho chúng ta nhiều suy ngẫm về văn hóa, khi cái hồn phương Đông đang bị chủ nghĩa thực dụng của phương Tây hút cạn. Đọc sách Văn minh Đông Phương và Tây Phương, ta thấy trân trọng hơn tâm hồn, cốt tủy của một nên văn minh với những giá trị cao đẹp và sâu sắc. Nền văn minh phương Đông hướng nội giúp chúng ta sống bình tĩnh, than thản, chịu khó đi sâu vào bên trong để tìm hiểu chính mình và sống đời thiện lương hơn. Nguyễn Duy Cần đem tư duy của văn minh phương Đông vào những cuốn sách của cụ. Không gò ép ai theo tư tưởng của mình, không vẽ sẵn lối đi mà chỉ gợi mở để người đọc tự nghiên cứu và suy ngẫm. Dẫu rằng mỗi văn hóa đều có cái hay dở, nhưng trước thực trạng văn hóa Đông phương đang bị mai một này, chúng ta cần đọc để hiểu hơn và giữ gìn những gì quý giá nhất của dân tộc ta. Lời kết Cảm tạ cụ Nguyễn Duy Cần bởi những cuốn sách sâu sắc và giàu giá trị như Văn minh Đông Phương và Tây Phương. Vỏn vẹn 168 trang giấy, sách đã cho chúng ta quay ngược thời gian và nhìn sâu hơn vào tâm hồn dân tộc để thêm trân trọng nền văn minh Đông phương này. Sách hay nên đọc Review sách Thuật Yêu Đương – đừng nói ái tình không cần đến lý trí Cảm Nhận Của Độc Giả
Văn hóa phương Tây và phương Đông luôn mang những nét đặc trưng rất riêng. Bởi mỗi nền văn hóa đều có thời gian và địa điểm hình thành khác nhau. Đặc biệt các nền văn hóa này rất đa dạng vì mỗi chủng tộc, bộ lạc, dân tộc đều có bản sắc riêng. Mỗi một sắc tộc sẽ tạo ra từng “chất” riêng thế nên sự đa dạng của văn hóa là vô tận. Tuy nhiên, nếu nhận xét chung thì cả 2 nền văn hóa Châu Âu và Châu Á khác nhau rất nhiều. Ví dụ như quần áo, lối sống, ẩm thực,… Nếu bạn đang thích thú về chủ đề này thì hãy cùng nhau khám phá ngay dưới đây. Những nét đặc trưng của văn hóa phương ĐôngNhững nét đặc trưng của văn hóa phương TâyNhững điểm khác biệt giữa văn hóa phương Tây và ĐôngVăn hóa đời sống phương Tây và ĐôngVăn hóa luật pháp ở phương Tây và ĐôngChia sẻ Những nét đặc trưng của văn hóa phương Đông Văn hóa phương Đông được hình thành từ rất sớm. Và có thể coi là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Từ những tộc người sinh sống tại đây, họ di cư đến những nơi khác nhau. Và dần hình thành nên các quốc gia riêng biệt. Trong đó bao gồm các nền văn minh là nền văn minh Trung Hoa, văn minh Ai Cập, văn minh Ấn Độ và văn minh Lưỡng Hà. Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh lâu đời và phức tạp nhất trên thế giới. Đại diện cho văn hóa nước Trung Quốc cho đến ngày nay. Cũng như là có những ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa phương Đông nói chung. Bao gồm cả Việt Nam. Văn minh Lưỡng Hà nằm ở phía Tây châu lục bao gồm các nền văn minh người Sumer và Akkad, văn minh cổ Babylon, văn minh cổ Assyria – Tân Babylon, văn minh Phoenicia – Palestine, văn minh Israel và Judah cổ xưa. Văn minh Ai Cập chính là nền tảng của đất nước Ai Cập ngày nay. Nhưng đã được phân tách thành Châu Phi. Tương tự với văn minh Ấn Độ chính là nền tảng văn hóa của Ấn Độ ngày nay. Nếu văn hóa Trung Hoa hình thành nên những đặc điểm lễ nghi, lối sống, tư tưởng, đạo lý con người riêng biệt. Từ đó trở thành thước đo cho nền văn hóa phương Đông về sau. Thì văn hóa Lưỡng Hà lại bị ảnh hưởng bởi văn minh phương Tây, nền văn hóa Cethic, Anglo Saxon mạnh mẽ. Song họ vẫn học hỏi, tiếp thu những tư tưởng, tín ngưỡng và đạo lý từ phương Đông. Những nét đặc trưng của văn hóa phương Tây Nền văn minh phương Tây hình thành từ đầu thiên niên kỉ I TCN ở các khu vực ven biển Địa Trung Hải. Đất đai khá cằn cỗi nhưng rất đa dạng về khoáng sản. Tộc người Anglo Saxon chính là nhân tố đầu tiên để hình thàn nên người da trắng về sau. Văn hóa phương Tây thay đổi qua nhiều giai đoạn thời gian như là Phục Hưng, Cải cách kháng cách, Thời kỳ khai sáng và được lan rộng vào thời kỳ chủ nghĩa thực dân. Kiến trúc phương tây từ xưa tới nay đã nổi tiếng vì vẻ đẹp vừa mang nét cổ điển vùa có sự hiện đại. Văn hóa kiến trúc độc đáo của phương tây là niềm cảm hứng của nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam. Nét kiến trúc độc đáo thể hiện được nết đẹp trong văn hóa đời sống. Chúng khiến bất kì ai cũng phải trầm trồ khen ngợi. Những lối kiến trúc tiêu biểu có thể kể đến như Kiến trúc La Mã cổ đại. Kiến trúc Roma. Kiến trúc Gothic. Kiến trúc thời kỳ phục hưng. … Mỗi quốc gia phương tây có nét riêng biệt và độc đáo trong phong cách kiến trúc. Nhưng tổng thể đều có sự hài hòa, cân đối và đầy tính nghệ thuật. Mỹ thuật phương tây có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời với nhiều giai đoạn khác nhau. Phương tây có nhiều trường phái nghệ thuật khác nhau với nhiều họa sĩ tên tuổi tạo và tác phẩm nổi tiếng thế giới. Có thể nói mỹ thuật phương tây là 1 trong những trường phái ảnh hưởng lớn nhất tới nền mỹ thuật thế giới. Những điểm khác biệt giữa văn hóa phương Tây và Đông Những đặc trưng của 2 nền văn hóa này có thể được khắc họa rõ nét giữa những đặc điểm khác biệt sau đây Văn hóa đời sống phương Tây và Đông – Văn hóa phương Tây dạy người ta các sống tự lập, phân tác. Trong khi đó người phương Đông hướng đến việc dựa vào nhau để tạo nên thể đoàn kết. – Tại phương Tây mọi người đều bình đẳng, không phân biệt địa vị, giai cấp. Trong khi tại phương Đông, tư tưởng có quyền lực, địa vị là ở trên tất cả vẫn tồn tại đến ngày nay. – Trong giao tiếp, người phương Tây thích đi thẳng vào vấn đề, nói đúng trọng tâm và thẳng thắn trong suy nghĩ. Người phương Đông tế nhị, thích nói vòng vo, nói tránh nói giảm để không làm mất lòng người khác. – Cái tôi của người phương Tây rất lớn, văn hóa phương Đông luôn đề cao tính khiêm nhường. Họ thu nhỏ bản thân để thích ứng với xã hội. – Khi thể hiện bản thân, văn hóa phương Tây luôn tự tin, mạnh mẽ. Và đứng lên nói điều mình muốn trong khi người phương Đông thường né tránh. Điều này thể hiện bản thân một cách khiêm nhường. – Mọi thứ tại phương Tây đều được đơn giản hóa, họ ăn uống đơn giản để tiết kiệm thời gian. Các mối quan hệ rành mạch, rõ ràng, thể hiện rõ cảm xúc của bản thân và nói lên điều mình muốn. Người phương Đông thường né tránh bộc lộ cảm xúc. Không thể hiện quá nhiều quan điểm cá nhân, thường có khá nhiều mối quan hệ phức tạp. Văn hóa luật pháp ở phương Tây và Đông – Văn hóa phương Đông đề cao tính tự do, dân chủ, không cần phải quá đặt nặng tiêu chí kính trên nhường dưới, ngôi xưng tương đồng, thái độ lịch sự như nhau đều được. Văn hóa phương Đông đặt nặng tính lễ nghi, tín ngưỡng và đạo lý, phảo biết tôn trọng người lớn tuổi, người có địa vị. – Văn hóa phương Tây tôn trọng luật lệ, biết tuân thủ quy định, xếp hàng khi mua sắm. Văn hóa phương Đông bất quy tắc, không biết xếp hàng, ít khi tuân thủ nội quy. – Văn hóa ẩm thực phương Tây đơn giản, khá nhàm chán và không tốt cho sức khỏe. Văn hóa ẩm thực phương Đông đa dạng, nhiều nguyên liệu, hương vị và cách thức chế biến. – Văn hóa phương Tây đề cao vẻ đẹp khỏe khắn, rám nắng, khiêu gợi, văn hóa phương Đông tôn trọng phụ nữ có nhân phẩm, biết ý tư nơi công cộng, da trắng, môi đỏ, tóc đen, nét đẹp dịu dàng, tinh tế. – Người phương Tây luôn tôn trọng giờ giấc, đả bảo đúng giờ hẹn. Người phương Đông thường trễ giờ. Với những khác biệt trong văn hóa phương Đông và phương Tây đã kể trên, ta đã phần nào khác họa được những đặc điểm của 2 nền văn minh lớn nhất trong nhân loại. Còn rất nhiều điều cho bạn khám phá, cùng tìm hiểu thêm để có được những kiến thức cho bản thân nhé. Nguồn
Tâm sự Thứ tư, 20/10/2010, 1934 GMT+7 From hai nguyenSent Tuesday, October 19, 2010 1126 PM Về quan điểm của anh Mark do liên quan đến bình đẳng nam nữ, tôi xin đưa những ý kiến thế này Nếu anh Mark tìm hiểu lịch sử Việt Nam về Hai Bà Trưng, Bà Triệu, anh Mark sẽ hiểu rằng xã hội Việt Nam trong một thời gian dài là chế độ mẫu hệ, trong đó vai trò của người phụ nữ trong gia đình là rất lớn. Điều đó ít nhiều vẫn được duy trì đến ngay nay, với nhiều người phụ nữ Việt Nam có vị trí lớn trong xã hội. Vì thế, khi nói phụ nữ Việt Nam khổ cực thì xin hãy đưa ra những cơ sở để so sánh. Về việc phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài, tôi xin nói rằng phần nhiều vì muốn mưu cầu một cuộc sống vật chất tốt hơn ở Việt Nam. Ngược lại, không ít đàn ông nước ngoài tìm đến phụ nữ Việt Nam là vì họ không có tiền để lấy vợ bản địa và thấy người phụ nữ Việt Nam có rất nhiều nét truyền thống như phục vụ và biết chiều chuộng họ hơn phụ nữ bản địa. Chẳng hạn như đàn ông Đức rất thích lấy vợ Thái Lan cũng một phần bởi lý do này. Nhưng đó chỉ là một vế của vấn đề tổng thể. Người phụ nữ Việt Nam khi lấy chồng ngoại cũng có rất nhiều cái khổ, chứ cũng không trọn vẹn, ví dụ như bất đồng ngôn ngữ văn hóa, lối sống... Về lý do tại sao phụ nữ Việt Nam và châu Á thường theo chồng và nhà chồng, trong cuộc sống phương Tây, tính tự lập của mỗi người là rất lớn, con cái trưởng thành, lập gia đình thường sống riêng và bố mẹ cô quạnh ở trong viện dưỡng lão. Nhưng trong văn hóa phương Đông, chúng tôi sống trong quần thể gia đình lớn và người phụ nữ thường phải theo lề thói chồng và nhà chồng. Đây là điều đương nhiên, không chỉ tồn tại ở Việt Nam mà còn ở nhiều nước Á châu. Điều quan trọng ngược lại bù đắp thiếu sót đó của người phụ nữ nằm ở chỗ mức độ “phải” đến đâu, chồng và nhà chồng đối đãi thuận lợi ngược lại nhằm bù đắp với người vợ thế nào. Vì thế, tôi muốn nói rằng văn minh phương Tây ở điểm này không phải là văn minh phương Đông do yếu tố văn hóa và giá trị tinh thần lâu đời. Vì thế, mối quan hệ trong gia đình và giá trị tinh thần ở các nước phương Đông thường cao hơn các nước phương Tây. Ngoài ra, ví dụ về ngài thủ tướng Anh cho con bú, xin thưa rằng đàn ông Việt Nam và châu Á có cách thể hiện khác với con cái để thấy rằng nghĩa vụ chăm sóc con cái không phải chỉ riêng ở người phụ nữ. Đồng thời, các nước phương Tây có thể cho rằng phụ nữ hay con cái có quyền bình đẳng ngang với đàn ông, bố mẹ, để có thể đảm bảo rằng chỉ một cái bạt tai nhẹ khi nóng giận là có thể gọi đến cảnh sát thì đó là cái nhìn quá trần trụi, phá vỡ quy tắc đạo lý trong gia đình. Tôi đưa ra quan điểm đó để nhấn mạnh rằng đàn ông không phải có quyền muốn làm gì cũng được, nhưng cũng không thể có chuyện con cái, phụ nữ muốn thế nào cũng được theo ý thích của mình. Đó là lý do tại sao trong nhà phải có nóc, trên dưới trật tự. Nếu như vợ anh “ghét” và muốn mọi thứ theo ý thích của mình thì đó không còn là cuộc sống gia đình mà là cuộc sống của những cá nhân tự do với nhau. Trong hầu hết văn hóa phương Tây, người phụ nữ có vị thế rất lớn. Điều đó có được gắn liền với quá trình phát triển nền văn minh và tranh đấu quyền bình đẳng của nữ giới trong lâu dài. Đó là điều chúng tôi cũng muốn nhưng cũng không có thể thực hiện ngay được trong ngắn hạn do còn bị ràng buộc bởi các yếu tố văn hóa, lối sống, suy nghĩ, quan điểm, nhìn nhận và sự phát triển chung của xã hội. Về quan điểm nếu người vợ cũng có con với chồng cũ, tôi không có ý kiến vì điều đó tùy nhìn nhận của mỗi người đàn ông. Đó là bởi vì đàn ông và phụ nữ do yếu tố sinh và tự nhiên cần có những vị trí khác nhau. Điều này lý giải đàn ông thường phải có trách nhiệm nhiều hơn trong việc kiếm tiền cho gia đình, ra chiến trường khi có chiến tranh nên rõ ràng trách nhiệm lớn hơn. Khi người phụ nữ cũng làm được như thế thì sự so sánh sẽ đem lại một câu trả lời giống nhau. Với nhìn nhận như thế, sẽ thật là khiên cưỡng khi so sánh phụ nữ, đàn ông Việt Nam với nước ngoài do tồn tại nhiều sự khác biệt.
Do sự hình thành và kiến tạo các mảng đất mà thế giới hình thành nên 2 lục địa chính thuở sơ khai có người sinh sống đó chính là Châu Âu và Châu Á. Những phần lục địa còn lại thường là nơi ở của nhiều bộ lạc, dân tộc thiểu số… và chỉ được biết đến từ sau thế kỉ thứ 10 khi được các nhà thám hiểm phát hiện ra. Chính vì điều này mà thế giới dần hình thành nên 2 luồng văn hóa chính là phương Đông và phương Tây. Có gì khác biệt giữa văn hóa phương Đông và phương Tây, mời bạn tìm hiểu dung chính Show 1. Văn hóa phương Đông2. Văn hóa phương Tây3. Sự khác biệt giữa văn hóa phương Đông và phương TâyTìm hiểu về các quốc gia cổ đại phương ĐôngLoại hình chữ viết nào ra đời sớm nhất ở các quốc gia cổ đại phương Đông?Tìm hiểu về các quốc gia cổ đại phương TâySo sánh các quốc gia cổ đại phương đông và phương tâyVideo liên quan 1. Văn hóa phương Đông Văn hóa phương Đông được hình thành từ rất sớm và có thể coi là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Từ những tộc người sinh sống tại đây, họ di cư đến những nơi khác nhau và dần hình thành nên các quốc gia riêng biệt, trong đó bao gồm các nền văn minh là nền văn minnh Trung Hoa, văn minh Ai Cập, văn minh Ấn Độ và văn minh Lưỡng Hà. Văn minh Trung Hoa là một trong những nền văn minh lâu đời và phức tạp nhất trên thế giới, đại diện cho văn hóa nước Trung Quốc cho đến ngày nay cũng như là có những ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn hóa phương Đông nói chung, bao gồm cả Việt Nam. Văn minh Lưỡng Hà nằm ở phía Tây châu lục bao gồm các nền văn minh người Sumer và Akkad, văn minh cổ Babylon, văn minh cổ Assyria – Tân Babylon, văn minh Phoenicia – Palestine, văn minh Israel và Judah cổ xưa. Văn minh Ai Cập chính là nền tảng của đất nước Ai Cập ngày nay, nhưng đã được phân tách thành Châu Phi. Tương tự với văn minh Ấn Độ chính là nền tảng văn hóa của Ấn Độ ngày nay. Nếu văn hóa Trung Hoa hình thành nên những đặc điểm lễ nghi, lối sống, tư tưởng, đạo lý con người riêng biệt, trở thành thước đo cho nền văn hóa phương Đông về sau. Thì văn hóa Lưỡng Hà lại bị ảnh hưởng bởi văn minh phương Tây, nền văn hóa Cethic, Anglo Saxon mạnh mẽ, song vẫn học hỏi, tiếp thu những tư tưởng, tín ngưỡng và đạo lý từ phương Đông. 2. Văn hóa phương Tây Nền văn minh phương Tây hình thành từ đầu thiên niên kỉ I TCN ở các khu vực ven biển Địa Trung Hải, đất đai khá cằn cỗi nhưng rất đa dạng về khoáng sản. Tộc người Anglo Saxon chính là nhân tố đầu tiên để hình thàn nên người da trắng về sau. Văn hóa phương Tây thay đổi qua nhiều giai đoạn thời gian như là Phục Hưng, Cải cách kháng cách, Thời kỳ khai sáng và được lan rộng vào thời kỳ chủ nghĩa thực dân. 3. Sự khác biệt giữa văn hóa phương Đông và phương Tây Những đặc trưng của 2 nền văn hóa này có thể được khắc họa rõ nét giữa những đặc điểm khác biệt sau đây – Văn hóa phương Tây dạy người ta các sống tự lập, phân tác trong khi người phương Đông hướng đến việc dựa vào nhau để tạo nên thể đoàn kết. – Tại phương Tây mọi người đều bình đẳng, không phân biệt địa vị, giai cấp. Trong khi tại phương Đông, tư tưởng có quyền lực, địa vị là ở trên tất cả vẫn tồn tại đến ngày nay. – Trong giao tiếp, người phương Tây thích đi thẳng vào vấn đề, nói đúng trọng tâm và thẳng thắn trong suy nghĩ. Người phương Đông tế nhị, thích nói vòng vo, nói tránh nói giảm để không làm mất lòng người khác. – Cái tôi của người phương Tây rất lớn, văn hóa phương Đông luôn đề cao tính khiêm nhường, thu nhỏ bản thân để thích ứng với xã hội. – Khi thể hiện bản thân, văn hóa phương Tây luôn tự tin, mạnh mẽ và đứng lên nói điều mình muốn trong khi người phương Đông thường né tránh, thể hiện bản thân một cách khiêm nhường. – Mọi thứ tại phương Tây đều được đơn giản hóa, họ ăn uống đơn giản để tiết kiệm thời gian, các mối quan hệ rành mạch, rõ ràng, thể hiện rõ cảm xúc của bản thân và nói lên điều mình muốn. Người phương Đông thường né tránh bộc lộ cảm xúc, không thể hiện quá nhiều quan điểm cá nhân, thường có khá nhiều mối quan hệ phức tạp. – Văn hóa phương Đông đề cao tính tự do, dân chủ, không cần phải quá đặt nặng tiêu chí kính trên nhường dưới, ngôi xưng tương đồng, thái độ lịch sự như nhau đều được. Văn hóa phương Đông đặt nặng tính lễ nghi, tín ngưỡng và đạo lý, phảo biết tôn trọng người lớn tuổi, người có địa vị. – Văn hóa phương Tây tôn trọng luật lệ, biết tuân thủ quy định, xếp hàng khi mua sắm. Văn hóa phương Đông bất quy tắc, không biết xếp hàng, ít khi tuân thủ nội quy. – Văn hóa ẩm thực phương Tây đơn giản, khá nhàm chán và không tốt cho sức khỏe. Văn hóa ẩm thực phương Đông đa dạng, nhiều nguyên liệu, hương vị và cách thức chế biến. – Văn hóa phương Tây đề cao vẻ đẹp khỏe khắn, rám nắng, khiêu gợi, văn hóa phương Đông tôn trọng phụ nữ có nhân phẩm, biết ý tư nơi công cộng, da trắng, môi đỏ, tóc đen, nét đẹp dịu dàng, tinh tế. – Người phương Tây luôn tôn trọng giờ giấc, đả bảo đúng giờ hẹn. Người phương Đông thường trễ giờ. Với những khác biệt trong văn hóa phương Đông và phương Tây đã kể trên, ta đã phần nào khác họa được những đặc điểm của 2 nền văn minh lớn nhất trong nhân loại. Còn rất nhiều điều cho bạn khám phá, cùng tìm hiểu thêm để có được những kiến thức cho bản thân nhé. Theo tổng hợp Kể đến lịch sử phát triển của nhân loại thì không thể không kể đến sự hình thành và phát triển của hai nền quốc gia, đó là các quốc gia cổ đại phương Đông và các quốc gia cổ đại Phương vậy với nội dung bài viết dưới đây hãy cùng chúng tôi đi tìm hiểu về sự khác biệt giữa các quốc gia này thông qua việc So sánh các quốc gia cổ đại phương đông và phương hiểu về các quốc gia cổ đại phương ĐôngCác quốc gia cổ đại phương Đông ra đời vào khoảng thế kỉ IV-III TCN, tồn tạ nhiều tàn dư của xã hội nguyên thủy trước đó, với trình độ sản xuất thấp kém, công cụ lao động thô sơ như đá, đồng… Tìm hiểu về các quốc gia cổ đại phương Đông thì đều thấy có chung một điểm đó là các quốc gia này đều hình thành bên các lưu vực sông lớn, ví dụ như– Ai Cập hình thành bên lưu vực sông Nin;– Ấn Độ hình thành bên lưu vực sông Hằng, sông Ấn;– Trung Quốc hình thành bên lưu vực sông Hoàng Hà, sông Trường GiangChính vì sự thuận lợi này mà hầu hết các quốc gia cổ đại phương Đồng đều tập trung phát triển nông nghiệp, chăn quá trình hình thành nhà nước được bắt đầu từ quá trình liên kết thị tộc, liên minh bộ lạc xuất phát từ nhu cầu của việc trị thủy, tuy nhiên vẫn bảo lưu dai dẳng những tàn dư của xã hội nguyên thủy. Do vậy mà các quốc gia cổ đại Phương Đông là quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền, mọi quyền lực đều được tập trung vào tay người đứng đầu đất nước là vui, là người sở hữu quyền lực tối cao, quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp và chỉ huy quân hội của các quốc gia cổ đại Phương Đông được chia thành 3 tầng lớp chính đó là– Tầng lớp quý tộc, gồm có quý tộc tăng lữ và quý tộc quan lại– Tầng lớp nông dân công xã chiếm trên 90% dân cư trong xã hội, đây được xác định là lực lượng sản xuất chính;– Tầng lớp nô lệ, phục vụ trong các cung điện và quan lại giàu có, là tầng lớp thấp kém nhất trong xã quá trình phát triển kinh tế thì các quốc gia cổ đại phương Đông tập trung phát triển chính là nông nghiệp, như thủ công nghiệp, chăn nuôi theo hình thức tự cung tự cấp. Việc này cũng nhờ vào điều kiện tự nhiên thuận lợi, mưa thuận gió hòa, lưu vực các dong sông lớn đem lại phù sa màu hình chữ viết nào ra đời sớm nhất ở các quốc gia cổ đại phương Đông?Sự ra đời của chữ viết là một trong những thành tựu nổi bật về văn hóa các quốc gia cổ đại phương Đông, bên cạnh thành tựu về lịch pháp thiên văn học, kiến trúc,…Chữ viết ra đời do nhu cầu ghi chép và lưu trữ thông tin. Vào khoảng thiên niên kỉ IV TCN, chữ viết đã xuất hiện ở Ai Cập và Lưỡng đầu là chữ tượng hình hình vẽ những gì mà họ muốn nói, sau đó họ sáng tạo thêm những kí hiệu biểu hiện khái niệm trừu tượng. Sau này, người ta cách điệu hoá chữ tượng hình thành nét và ghép các nét theo quy ước để phản ánh ý nghĩ của con người một cách phong phú hơn gọi là chữ tượng ý. Chữ tượng ý chưa tách khỏi chữ tượng hình mà thường được ghép với một thanh để phản ánh tiếng nói, tiếng gọi có âm sắc, thanh điệu của con Ai Cập viết trên giấy làm bằng vỏ cây papirút. Người Su-me ở Lưỡng Hà dùng một loại cây sậy vót nhọn làm bút viết lên trên những tấm đất sét còn ướt rồi đem phơi nắng hoặc nung khô. Người Trung Quốc lúc đầu khắc chữ trên xương thú hoặc mai rùa, về sau họ đã biết kết hợp một số nét thành chữ và viết trên thẻ tre hay trên hiểu về các quốc gia cổ đại phương TâyKhác với các quốc gia cổ đại phương Đông, các quốc gia cổ đại phương Tây có sự ra đời khá là muộn vào thế kỉ I TCN, hình thành dựa trên cơ sở trình độ sản xuất cao với cong cụ chủ yếu là quốc gia cổ đại phương Tây được hình thành chủ yếu ở khu vực vùng ven biển địa Trung hải, điều kiện đất đai khô cằn và rất khó cho hoạt động canh tác, phát triển nông nghiệp, nhưng lại thuận lợi cho quá trình phát triển hải cảng, thương thể chế chính trị thì các quốc gia cổ đại phương Tây xây dựng theo nền dân chủ chủ nô hoặc công hòa quý tộc, đế chế. Xã hội chia ra làm 2 giai cấp chính đó là– Chủ nô, đây là những chủ xưởng, chủ buồn giàu có…nắm giữ nhiều của cải nên rất giàu có, cuộc sống sung túc và nắm trong tay nhiều quyền lực, họ bóc lột nô lệ rất nặng nề và sở hữu nhiều nô lệ– Nô lệ, đây cũng là thành phần chiếm số đông trong xã hội, là lực lượng lao động chính nhưng lại không được hưởng bất cứ quyền lợi nào, chịu sự bóc lột nặng nề của chủ nô, hay còn được gọi là vật sở hữu của chủ nôVề kinh tế thì do địa hình tư nhiên không mấy thuận lợi cho việc canh tác nông nghiệp nên chỉ tập trung vào phát triển thủ công nghiệp và thương giải đáp cho Qúy khách về các quốc gia cổ đại phương Đông và phương Tây. Với nội dung tiếp theo của bài viết, chúng tôi sẽ tiếp tục cung cấp thêm cho Qúy khách về So sánh các quốc gia cổ đại phương đông và phương tâySo sánh các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây – Do hình thành trên lưu vực các con sông lớn nên các quốc gia này có điều kiện đồng bằng phù sa màu mỡ, tơi xốp, thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp – Nguồn nước vô cùng dồi dào, tạo điều kiện quan trọng trong việc cung cấp nước cho hoạt động sản xuất và nước dùng trong sinh hoạt, đồng thời cung cấp nước cho nguồn thủy sản, và đây cũng là đường giao thông quan trọng của đất nước – Có đường bờ biển kéo dài, nhiều vũng vịnh sâu và kín gió, thuận lợi cho việc phát triển giao thông đường biển. – Đất đai thích hợp để trồng các loại cây như nho, ôliu Nền kinh tế nông nghiệp được chú trọng và rất phát triển , đồng thời gắn liền với công tác thủy lợi – Nền kinh tế công thương, mậu dịch hàng hải phát triển, giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. – Ngành nông nghiệp chỉ được xác định là thứ yếu Chế độ chuyên chế cổ đại hay nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền Bộ máy nhà nước 100% là quý tộc, đất nước mang tính dân chủ chủ nô hay cộng hòa quý tộc Xã hội tồn tại hai giai cấp chính là – Giai cấp thống trị, gồm vua, quý tộc, quan lại – Giai cấp bị trị, là nông dân, nô lệ, thợ thủ công… Có hai giai cấp cơ bản và luôn tồn tại mối quan hệ đối kháng nhau là Chủ nô và nô lệ – Sáng tạo ra nông lịch; – Chữ viết tượng hình, tượng ý; – Phát minh và nghiên cứu ra toán học số pi, diện tích hình tròn… – Kiến trúc nổi trội Kim tự tháp Ai Cập, thành Babilon Lưỡng Hà… – Sáng tạo ra lịch; – Hệ chữ cái Latinh; – Số La Mã; – Toán học với các định lý Pitago, Ta lét… – Nghệ thuật Tượng nữ thần Atena, đấu trường Roma… Với nội dung bài viết phía trên, chúng tôi đã giải thích cho Quý khách về So sánh các quốc gia cổ đại phương đông và phương tây. Nếu còn gì thắc mắc về vấn đề này thì Qúy khách hãy liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ trực tiếp.
so sánh nền văn minh phương đông và phương tây